Nỗi kinh hoàng khiến trai tráng làng mổ chó lớn nhất Việt Nam bỏ nghề

: :

Sợ hãi linh hồn chó “báo oán”, nên người dân trong làng không ai dám mổ chó nữa, mà thuê thợ từ nơi khác.

 

Nhắc đến giết mổ thịt chó, người dân thủ đô nghĩ ngay đến làng Cao Hạ (xã Đức Giang, Hoài Đức, Hà Nội). Không ai nắm rõ làng Cao Hạ có nghề thịt chó từ bao giờ, chỉ biết rằng, đó là nghề gia truyền. Cha ông người Cao Hạ làm nghề giết mổ thịt chó, thì giờ con cháu vẫn theo nghề sát sinh này.

Ông Hồ Xuân Đức, thủ từ đền Giang Xá, thờ cụ Lý Nam Đế, ở ngay đầu làng Cao Hạ kể rằng, trước đây, Cao Hạ vốn làm nghề bún, cung cấp cho Hà Nội. Cách đây cả thế kỷ, người Cao Hạ đã làm bún, mà cả làng cùng làm, đúng chất một làng nghề nhộn nhịp.

Thế nhưng, cũng cách nay cả thế kỷ, trong làng có vài gia đình chuyên mổ chó. Nghề mổ chó cứ mỗi ngày một phất lên. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ trước, nghề mổ chó ở Cao Hạ đã nhộn nhịp lắm. Mấy chục hộ dân trong làng có lò mổ chó. Nửa đêm, dân làng thắp đèn sáng trưng, đập chó kêu ăng ẳng.

Sáng ra, người Cao Hạ đạp xe chở chó đi khắp Hà Nội, cung cấp cho các chợ lớn như Âm Phủ, Phùng Hưng, Thái Hà, Mỹ Đình, thị trấn Trôi, Phùng… Nói không ngoa, ngày đó, 90% quán thịt chó ở thủ đô và vùng lân cận là do người Cao Hạ cung cấp.

Nghề giết mổ chó cứ thế phất lên, rồi nhà nọ học theo nhà kia, cùng giết mổ chó. Làng Cao Hạ giết mổ chó cực kỳ chuyên nghiệp. Họ có cả đội quân thu mua chó khắp Việt Nam. Thậm chí, sang tận Lào, Campuchia, Thái Lan thu mua hàng xe tải chó. Mua chó ở nước ngoài vừa rẻ, thịt lại ngon, nên thịt chó Cao Hạ mỗi ngày thêm nổi tiếng. Đội quân buôn chó cung cấp cho các lò mổ. Hàng chục người trong làng làm công việc buôn bán các bộ phận chó đi khắp nơi. Cả làng sống nhờ con chó, làm giàu nhờ giết mổ, buôn bán thịt chó.

Để tận mắt công việc mang tính sát sinh loài vật nuôi thân thuộc với con người, nửa đêm tôi tìm đến làng Cao Hạ. Ban ngày thì làng nước im ắng, thậm chí ít người qua lại làng, vì người đi đổ mối thịt chưa về, người thì ngủ mê mệt sau một đêm làm việc vất vả, nhưng 12 giờ đêm, là thời điểm xóm làng tấp nập.

Chiếc xe tải chở hàng chục lồng chó đỗ trước lò mổ của bà S. Bà S. bật điện sáng trưng, giọng vang như chuông đồng, kêu đám thợ trở dậy làm việc. Thợ mổ người chuẩn bị dao, chậu, pha chế nước sôi.

Từ trên xe tải, từng lồng chó được khiêng xuống, chồng chất lên nhau. Mỗi lồng có đến 10 con chó đang gầm ghè. Con nào con nấy bẩn thỉu, hôi hám. Mùi khai, thối của chất thải con nọ dính vào con kia, ủ lâu ngày, bốc lên khiến tôi muốn phát ói. Tuy nhiên, những người thợ đều đã quá quen thuộc với thứ mùi ấy, nên chẳng hề gì.

Mặc dù nghề giết mổ gia súc không vi phạm pháp luật, quang minh chính đại, nhưng những người làm nghề giết mổ ở đây đều tránh mặt khi nói về nó, đặc biệt là ngại tiếp xúc với giới truyền thông. Họ không muốn người đời biết mình làm công việc sát sinh.

Vì thế, tôi phải trong vai người đi tìm nguồn hàng thịt chó, cung cấp cho nhà hàng của mình. Bà S. bảo, những năm trước, mỗi đêm, lò mổ của bà giết cả tấn chó, tuy nhiên, công việc kinh doanh ngày một khó khăn, nhiều lò mổ cạnh tranh, nên chỉ giết mổ chừng 5 tạ.

Để có đủ nguồn hàng, bà S. phải xây dựng một khu chuồng trại ở ngoài cánh đồng, cách làng gần 100m. Tại đây, bà chứa hàng xe tải chó, giết mổ vài ngày mới hết. Ngày trước, lò mổ của bà ở trong làng, nhưng dân kiện cáo vì ô nhiễm và mất ngủ vì tiếng chó kêu, nên bà phải chuyển ra cánh đồng.

3 thợ mổ chó, gồm 1 người lớn tuổi, 2 thanh niên đã sẵn sàng cho công việc. Dũng, một thợ mổ chó quê ở Thái Bình dùng chiếc “kìm” lớn luồn vào trong lồng, kẹp cổ chó lôi ra xềnh xệch. Chú chó sợ hãi kêu ăng ẳng. Tiếng “bốp” khô khốc vang lên, chú chó nằm giãy đành đạch, không kịp kêu thêm tiếng nào nữa. Đàn chó trong chuồng sợ hãi tru lên thảm thiết.

Dũng đập chết con nào, 2 người thợ lại thay nhau xách chó đặt lên giàn chọc tiết. Tiết đỏ xổ ra ngập mấy chiếc chậu cáu bẩn. Chỉ một chốc lát, 30 con chó đã toi mạng, nằm chồng đống lên nhau trên nền xi măng nhoe nhoét phân, nước tiểu, máu me. Một cảnh tượng giết chóc vô cùng thảm khốc.

Không rửa ráy, xả nước gì, xác những chú chó bẩn thỉu được tống vào những chảo nước đang sôi ùng ục, rồi ném vào máy đánh lông. Chiếc máy quay tít như máy giặt, đánh tuột sạch lông chó. Con nào đã trắng bợt, thì thợ vứt oạch xuống nền xi măng bẩn thỉu. Ngoài kia, rơm đã được trải thành dãy dài. Từng chú chó trắng bợt được xếp hàng thẳng thớm. Lửa nổi lên bùng bùng.

Khi chú chó đã vàng ruộm, đẹp mắt, thì mỗi thợ một con mổ bụng, moi lòng. Mỗi thợ chỉ mất độ chục phút cho một con chó, là bộ phận nào đã ra bộ phận đó. 4 giờ sáng, người nhập hàng đã tới tấp đến. Họ đến sớm chầu chực để lựa những con chó ngon nhất. Trong chốc lát, 30 con chó đã sạch bay. Bà S. bảo, nay trời trở lạnh, thịt chó sẽ được chuộng, nên sai thợ thịt thêm vài con nữa.

Cách lò mổ của bà S. không xa, là lò mổ của bà Đ., ông T. cũng sáng rực ánh đèn, người ra vào lựa chó thịt đông nườm nượp. Đây được coi là 3 lò mổ lớn nhất làng Cao Hạ, mỗi đêm giết thịt vài tạ đến cả tấn chó.

Trong làng còn mấy chục lò mổ nữa, nhưng chỉ là lò mổ nhỏ lẻ, mỗi ngày giết mổ vài con. Nhưng cộng lại tổng thể, mỗi đêm, làng Cao Hạ giết tới 4-5 tấn chó, tức là có khoảng 300-400 con chó bị hóa kiếp. Những ngày cao điểm, đặc biệt dịp cuối tháng, có tới cả chục tấn chó bị giết ở ngôi làng này.

Những cái chết kỳ quặc khiến cả làng không dám… giết chó!

Ông thủ từ Hồ Xuân Đức, người trông coi, hương khói đền Giang Xá ở đầu làng Cao Hạ bảo rằng: “Nói chuyện này cậu không tin, nhưng có một thực tế là ở làng Cao Hạ không có ai dám cầm chày đập chết con chó, cầm dao chọc tiết nó đâu. Cùng lắm họ chỉ dám thui chó, mổ bụng, làm lòng, khi thợ đã giết chó rồi.

Ngày xưa, việc giết chó tự tay người Cao Hạ làm, nhưng nhiều chuyện xảy ra lắm, nên không ai dám làm cái việc sát sinh ấy nữa. Nhưng đất chật, người đông, không mổ chó thì lấy gì mà sống, nên họ vẫn phải duy trì lò mổ. Có điều, họ không trực tiếp giết chó, mà thuê thợ giết mổ từ nơi khác về. Họ trả công vài trăm ngàn mỗi ngày nên thuê được rất nhiều thợ. Mà với số tiền hậu hĩnh như vậy, thì nhiều người dám cầm chày đập con chó, cầm dao chọc cổ nó”.

Nghe ông Đức nói vậy, tôi không tin lắm, nhưng quả thực, đến các lò mổ ở Cao Hạ, từ lò mổ lớn, đến bé, song không có bất cứ thợ giết mổ nào là người Cao Hạ. Thợ mổ đều được thuê từ các tỉnh khác như Thái Bình, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc... Đông nhất vẫn là người Thanh Hóa.

Ở Đông Sơn (Thanh Hóa), có một ngôi làng, mà cả làng đi buôn chó xuyên quốc gia và đi giết mổ chó mướn ở khắp nơi. Người nọ rủ người kia, nên có đến mấy chục thợ ở Đông Sơn hành nghề giết chó thuê ở Cao Hạ.

Lang thang tìm hiểu ở làng mổ chó Cao Hạ, tôi được nghe người dân kể rằng, người Cao Hạ đi đến đâu cũng bị chó sủa, chó cắn. Mặc dù ngôi làng đang yên tĩnh ban trưa, nhưng người Cao Hạ đi qua, là chó sủa dậy làng. Người ta đồn rằng, người Cao Hạ là khắc tinh của loài chó, mà chó là loài rất thính nhạy, nên cảm nhận được.

Ngày rằm, tôi trở lại làng Cao Hạ, tạt vào chùa Cao Hạ, tôi thấy người vào ra nườm nượp, khói hương nghi ngút, vàng mã khắp nơi. Vàng mã đủ hình 12 con giáp, gồm trâu, chó, ngựa, dê, rồng, chuột… Tôi nhận ra bà D., một chủ lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ.

Bà D. tuy đã 56 tuổi, nhưng ăn mặc khá thời thượng, ra dáng một bà chủ lớn. Bà có một tòa biệt thự ở trong làng, cùng một nhà nghỉ Hà Nội. Tất cả gia sản đó đều từ con chó mà ra.

Cũng như những gia đình khác ở Cao Hạ, bà D. rất sợ loài chó “báo oán”. Bữa nay, cũng như mọi năm, bà chuẩn bị lễ rất lớn để cúng hàng giờ ở chùa Cao Hạ. Người cúng giải hạn cho bà D. chính là thầy Thích Thanh Thủy, trụ trì chùa Cao Hạ.

Tôi tiếp chuyện, nhưng bà từ chối cung cấp thông tin. Hầu hết người dân ở làng Cao Hạ đều không muốn nói về công việc sát sinh của mình. Bản thân bà, dù đã giàu có lắm rồi, nhưng nỗi mất mát còn lớn hơn. Người chồng đầu ấp tay gối đã chết vì nghiệp giết chó. Con cái phương trưởng, làm các nghề khác, không theo nghề mổ chó.

Bao năm nay, bà sống cô đơn một mình trong tòa biệt thự nguy nga, nhưng buồn vô hạn. Bà đang sống trong khổ đau, dằn vặt, vì bà tin rằng, trăm ngàn kiếp nữa, bà phải chịu quả đau đớn, vì đã sát hại hàng vạn con chó.

Dù bà D. không tiết lộ chuyện gia đình mình, song cái chết của ông K., chồng bà, thì cả làng Cao Hạ đều biết. Cái chết của ông cũng khiến cả ngôi làng này hoang mang tột độ.

Theo đó, nghề mổ chó đã có từ đời ông nội của bà. Ông nội của bà cũng chính là một trong số ông tổ của nghề giết mổ chó làng Cao Hạ. Khi đó, gia đình nghèo, ông nội bà phải lang thang khắp nơi, học nhiều nghề. Cuối cùng, ông học được nghề giết mổ chó từ một chủ lò mổ ở Bắc Ninh. Ông cụ đã mang nghề này về làng. 12 tuổi, cô bé D. đã biết đạp xe chở thịt chó đi bán. 15 tuổi nghễu nghện đạp xe chở chó về tận Hà Nội giao hàng. Vậy là, ở tuổi 56, bà D. đã có hơn 40 năm gắn bó với nghề thịt chó.

Bà D. lấy chồng, là ông K., người làng khác. Mặc dù là cán bộ Nhà nước, nhưng đồng lương công chức đói kém, nên ông đã bỏ cơ quan về giết mổ chó giúp vợ. Công việc mổ chó suôn sẻ, kinh tế gia đình ngày một khấm khá. Thế nhưng, cách đây 15 năm, một vụ tai nạn đã cướp đi mạng sống của chồng bà.

Lần đó, sáng tinh mơ, vợ chồng bà đèo nhau đi bỏ mối thịt chó ở Hà Nội. Đường vắng, ông K. phóng xe khá nhanh. Xe đang chạy bon bon, thì bất ngờ một con chó từ vệ đường lao ra. Mặc dù đã nhấn phanh gấp, song chiếc xe máy ông K. điều khiển vẫn tông phải con chó. Ông bà ngã văng mỗi người một nơi.

Ông K. nằm bất động giữa đường. Bà D. tỉnh lại, còn nhìn thấy con chó từ từ nhổm dậy, đi lại gần phía ông K. gầm gừ mấy tiếng, rồi mới bỏ đi. Nó tiến lại phía bà D. Đúng lúc đó, bà ngất xỉu. Khi tỉnh dậy, bà thấy mình đang nằm trong bệnh viện. Bà hoảng hốt hỏi ông K. đâu, thì đàn con đứng cạnh khóc thút thít, đầu chít khăn tang trắng. Bà đã mất chồng vì con chó.

Chồng mất vì đâm phải con chó, khiến lòng bà D. hoang mang. Nhiều người khuyên bà nên bỏ nghề, vì cái chết của ông K. là do loài chó “báo oán”. Bà D. cũng tính bỏ nghề, nhưng ruộng đất không có, bà lại chỉ thạo mỗi nghề mổ chó, đàn con đang tuổi ăn, tuổi học, không mổ chó thì lấy gì nuôi con, nên bà vẫn phải nhắm mắt theo nghề.

Kể từ đó, bà năng đi chùa hơn. Cứ đến ngày rằm, mùng một, các ngày lễ lớn, bà đều lên chùa, làm lễ, mong linh hồn những con chó do bà sát hại được đầu thai vào loài khác, được siêu sinh, không phải làm kiếp chó nữa.

Mặc dù, công việc giết mổ chó mỗi ngày một phát đạt, kinh tế mỗi ngày thêm khá giả, song bà D. không thấy hạnh phúc hơn. Bao năm trời bà khốn khổ với một cậu con trai. Anh này không ham học, không ham làm, mà chỉ phá phách tiền bạc của bà. Hết lô đề, cờ bạc, anh ta quay sang hút chích. Cuối cùng, người con trai này cũng chết vì sốc thuốc.

Sư trụ trì Thích Thanh Thủy bảo rằng, ở làng Cao Hạ, bà D. là người rất tín tâm. Mỗi lần đi chùa, bà cúng tới vài chục triệu, đốt vô số vàng mã. Thầy Thủy bảo: “Tôi cũng thuyết giảng, tuyên truyền nhiều lắm, nhưng nghề mổ chó là miếng cơm manh áo của họ, nên họ không bỏ được. Họ vừa làm vừa vào chùa sám hối. Họ tưởng làm thế là thoát, nhưng họ đã lầm. Nhân – Quả rất công bằng. Dù có cúng cả tiền tỉ, thì họ vẫn phải nhận cái Quả, do đã gieo Nhân ác sát sinh.

Trong Tam tự kinh có câu “Khuyển mã tứ tình”, tức là con chó, con ngựa có tình cảm với con người, nó cũng là một sinh linh như con người. Lại có câu “Khuyển thủ dạ, kê tư thần”, nghĩa là con chó thức đêm canh cho con người, con gà gáy sáng báo thức, thì con người mới sớm khuya an giấc. Con chó thân thiết với con người là vậy, mà sát hại nó, ăn thịt nó thì quá tàn nhẫn, không phải chịu báo oán mới lạ”.

Theo thầy Thủy, không chỉ bà D., mà còn có một số chuyện chết chóc nữa trong làng Cao Hạ cũng liên quan đến con chó. Những vụ chết chóc đó, theo sư thầy Thích Thanh Thủy, đều là do gây nghiệp nặng, nên phải trả ngay từ kiếp này. Những gia đình gặp cảnh chết chóc, đều tìm đến chùa cúng bái thường xuyên, mong tai ương không tiếp tục xảy đến với mình.

Đáng chú ý là câu chuyện của ông H. Cái chết của ông H. đã xảy hơn 10 năm trước, song còn gây kinh hãi với những người mổ chó ở Cao Hạ đến tận hôm nay. Người dân trong làng đều kể vanh vách. Một đồn mười, mười đồn trăm, khiến cái chết của ông càng trở nên kỳ quái.

Ngày đó ông H. gây dựng được lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Đêm nào vợ chồng ông với sự phụ giúp của con cái, cũng hóa kiếp vài chục chú chó. Thế nhưng, một đêm, sau khi đập chết chó, thui rơm vàng ươm, chuẩn bị mổ bụng moi lòng, thì mọi người không thấy ông H. đâu cả. Mọi người gọi, không thấy ông thưa. Bỗng nhiên, vợ ông hét ầm ĩ, rồi ngất xỉu.

Mọi người chạy đến thì phát hiện ông H. đang nằm trong nồi nước nhúng chó sôi ùng ục. Ông H. đã chết một cách khủng khiếp. Không ai hiểu vì sao ông H. lại rơi vào nồi nước nhúng chó để vặt lông. Người thì bảo ông bị ngã vào, người lại đoán mò ông bị linh hồn loài chó “báo oán”, nên ông mới chết theo cách kỳ quặc như vậy.

Ngay sau cái chết của ông H. một thời gian thì đến cái chết của anh V., chồng chị C. Khi đó, anh V. tròn 40 tuổi. Anh là thợ mổ chó lành nghề nhất làng Cao Hạ. Chỉ 3 tiếng nửa đêm về sáng, mình anh mổ xong 10 đến 15 chú chó. Vì thế, kinh tế mỗi ngày thêm khấm khá.

Thế nhưng, tai họa ập đến đúng lúc gia đình đang ăn nên làm ra. Khi anh cắm quạt điện để thui chó, dây quạt chập điện bốc khói và cháy. Chẳng hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, anh không rút phích điện, mà dùng tay không nối lại dây điện. Anh bị điện giật chết, mặt mũi méo xẹo, nằm vật bên đống chó chưa kịp thui.

Rồi cái chết cũng hết sức lãng xẹt của ông Nguyễn Văn L. Ông L. cũng là chủ lò mổ chó chuyên nghiệp ở Cao Hạ. Người Cao Hạ bị chó cắn như cơm bữa, nên nhà nào cũng thủ sẵn thuốc tiêm phòng. Mấy lần bị chó cắn, ông L. đều tiêm phòng cẩn thận. Thế nhưng, lần này, con chó cắn nhẹ, chỉ hơi xước ở cổ tay, nên ông chủ quan, không tiêm phòng. Thời gian sau, ông lên cơn dại, rồi qua đời.

Cái chết của 4 chủ lò mổ liên quan đến chó khiến người dân Cao Hạ hoang mang cực độ. Sợ hãi linh hồn chó “báo oán”, nên người dân trong làng không ai dám mổ chó nữa. Họ đồng loạt thuê thợ nơi khác đến giết mổ chó, còn dân trong làng chỉ làm những công đoạn tiếp theo. Họ muốn đổ cái nghiệp đó cho những người làm thuê.

Quả thực, lang thang ở làng Cao Hạ, tôi nhận thấy rằng, rất ít gia đình có được hạnh phúc đầy đủ, toàn vẹn vì nghề giết mổ chó. Chỉ có 3 gia đình giàu có, nhưng nhà thì có người chết chóc, nhà có con cái nghiện ngập. Còn lại, tất cả các hộ gia đình chỉ có mức sống bình thường từ nghề giết mổ chó. Nhiều người có được chút tiền từ lò mổ thì sa đà vào cờ bạc, ăn chơi, nghiện ngập…